Hướng dẫn quy trình Kỹ thuật trồng và chăm sóc dưa hấu. Cách xác định thời vụ, kỹ thuật gieo hạt, ươm cây. Quy trình bón phân, chăm sóc, làm cỏ, tưới nước, tỉa nhánh, định hướng dây, thụ phấn, chọn trái. Biện pháp Phòng trừ sâu bệnh hại dưa và phương pháp thu hoạch bảo quản sản phẩm.

Giới Thiệu Về Cây Dưa Hấu

Dưa hấu (Citrullus lanatus) là một loài thực vật thuộc họ Bầu bí (Cucurbitaceae), có giá trị dinh dưỡng và thương mại cao. Ở Việt Nam, diện tích trồng dưa hấu ngày càng tăng, sản xuất dưa hấu mang lại thu nhập cao, giải quyết công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân.

Kỹ Thuật Trồng Dưa Hấu

1.1. CHỌN ĐẤT VÀ CHUẨN BỊ ĐẤT

a) Chọn đất

Đất trồng dưa nên luân canh với cây trồng khác họ (lúa, ngô, cây họ đậu).

b) Chuẩn bị đất

Thu dọn tàn dư cây vụ trước, cày phay tơi nhỏ, nhặt sạch cỏ dại. Lên luống rộng 2,5 – 3 m loại luống đơn, 4,5 – 6 m với luống kép, hình mui luyện (Hình 1). Rãnh rộng 30 cm, sâu 25 cm. Hướng luống đông – tây để có nhiều ánh sáng. Xử lý đất bằng vôi bột 300 kg/ha, Vicarben 30 kg/ha để chống sâu xám và nhộng của các loại côn trùng khác.

Sau khi bón lót tiến hành phủ màng nông nghiệp. Hướng mặt bạc lên trên luống, mặt đen xuống dưới trước khi trồng cây để giữ đất tơi xốp, giữ ẩm, ấm cho cây, tránh rửa trôi dinh dưỡng khi mưa to, tránh cỏ dại. Cách trải màng phủ: kéo căng, ghim chặt bằng dây thép, chặn mép luống và màng phủ bằng đất sát mép.

1.2. THỜI VỤ TRỒNG

a) Các tỉnh phía Bắc

Vụ Xuân Hè: Do có mùa đông lạnh nên vụ này là vụ chính. Gieo vào cuối tháng 2, trồng 10 – 15/3, thu hoạch cuối tháng 5. Vụ này điều kiện thời tiết thích hợp cho dưa hấu, nhưng cần đề phòng con nước Tiểu mãn vào tháng 5 làm ngập.

Vụ Hè: Trồng khi gặt xong lúa Đông Xuân sớm, giữa tháng 6, thu hoạch cuối tháng 7. Thời vụ này thích hợp cho vùng trồng dưa hấu ở Đồng bằng sông Hồng (Hải Dương, Hải Phòng). Nhược điểm của vụ này là mưa nhiều nên các chân đất trũng hay bị ngập. Cần trồng dưa hấu ghép lên gốc bầu để chịu úng và chống bệnh héo vàng.

Vụ Đông: Từ khi có cơ cấu các giống lúa ngắn ngày, ở Đồng bằng sông Hồng có thêm vụ dưa hấu Đông. Tuy nhiên, vụ này nghiêm ngặt về thời gian nên chỉ vùng nào người dân có kinh nghiệm thâm canh mới nên trồng. Gieo hạt cuối tháng 8, trồng đầu tháng 9, thu hoạch cuối tháng 11, đầu tháng 12.

b) Các tỉnh miền Trung và miền Nam

– Vụ sớm: Gieo trồng tháng 10, thu hoạch cuối tháng 12, trồng trên chân đất thoát nước, do ảnh hưởng mưa đầu vụ.

– Vụ chính: Gieo trồng tháng 11, thu hoạch tết âm lịch. Mùa này cây sinh trưởng thuận lợi, nên năng suất cao.

– Vụ hè: thu hoạch sau tết âm lịch, trồng trên đất sau lúa ở An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp và các tỉnh miền Trung.

1.3. KỸ THUẬT LÀM VƯỜN ƯƠM

Lượng hạt giống cần dùng cho trồng 1 ha là 0,5 – 1 kg, tùy theo hạt nhỏ hay hạt to. Ngâm hạt trong nước ấm (2 sôi 3 lạnh) từ 4 – 5 giờ. Vớt hạt rửa sạch hết nhớt. Ủ hạt trong khăn bông 2 – 3 ngày ở nhiệt độ 28 – 30oC cho nứt nanh, đảm bảo đủ ẩm cho hạt. Sau đó đem gieo vào bầu, đặt hạt nằm ngang, rễ quay xuống dưới.

Túi bầu làm bằng plastic đường kính 10 cm, cao 10 – 12 cm hoặc có thể làm đơn giản bằng lá chuối cuộn. Đất trộn bầu gồm đất, phân chuồng mục, trấu tỉ lệ 6:4:1. Sau khi gieo hạt xong lấp lớp đất mỏng phủ hạt. Cần đề phòng chuột, kiến tha hạt. Tưới đủ ẩm, không nên tưới nhiều nước, cây dễ bị chết thắt vào mùa nóng. Sau 3 ngày cây con mọc, mùa mưa cần che mưa cho cây con, để cây con nơi có nhiều nắng cho cây khỏe. Sau mọc 1 tuần vào mùa ấm có thể trồng ra đồng. Vụ Xuân, sau gieo khoảng 20 ngày có thể trồng được.

Ghép dưa hấu lên gốc bầu: Đây là phương pháp tiên tiến để tránh bệnh héo vàng do nấm Fusarium oxysporum niveum sp. và các bệnh từ đất gây ra khi trồng dưa hấu vào mùa nóng ẩm. Ở nước ta, các tỉnh phía Nam hay dùng biện pháp này, một số tỉnh phía Bắc và miền Trung như Nghệ An, Lạng Sơn, Bắc Giang hiện nay cũng đã dùng biện pháp ghép để chống bệnh héo.

 

Cách ghép: Dùng giống bầu khỏe, dễ thích nghi, nhân giống để làm gốc ghép. Gieo hạt bầu vào bầu đất như dưa hấu. Khi cây bầu mọc hai lá mầm thì gieo hạt dưa hấu. Hạt dưa hấu gieo trong trấu hoặc cát đãi sạch, lấp lượt trấu hoặc cát dày 2 – 4 cm. Để hạt dưa hấu nơi ít ánh nắng để mầm mọc dài, lá mầm chậm mở. Khi cây bầu có lá thật, cắt phần ngọn bầu sát hai lá mầm từ hôm trước. Ba hôm sau cắt vát phần ngọn dưa hấu dài 3 cm, dùng tăm tre cứng và sạch, nhỉnh hơn thân dưa hấu cắm vào ngọn bầu, rút tăm tre cắm ngọn dưa hấu vào lỗ ghim vừa rút ra. Nên ghép chỗ kín gió, vào lúc chiều mát, che cây ghép kín trong 3 – 5 ngày. Khi ngọn dưa hấu liền vào ngọn bầu, để cây chỗ mát, khi cây có 2 lá thật đem trồng (10 – 13 ngày).

Xem Thêm:   Kỹ Thuật Trồng Nhãn Năng Suất Cao Chuẩn VietGAP

1.4. MẬT ĐỘ, KHOẢNG CÁCH

Khoảng cách thích hợp là 2,5 – 3 m x 0,5 m (hàng cách hàng 2,5 – 3 m; cây cách cây 0,5 m); mật độ 6.500 – 9.000 cây/ha.

Bón thúc: Đạm urê: 80 – 150 kg/ha; Kali clorua: 80 – 100 kg/ha.

Ngoài ra, còn có thể dùng phân bã đậu tương ngâm, nước phân chuồng ủ mục bón thúc khi quả đang phát triển.

Bảng 1. Bón phân cho dưa hấu

Loại phân

Bón lót Bón thúc
Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4 Lần 5 Lần 6
Phân chuồng (tấn/ha) 20 – 30
Lân Supe (kg) 100
Đạm urê (kg) 10-20 20-30 20-30 10-30 10-20 10-20
Kali clorua (kg) 10-15 20-25 20-25 10-20 10-15 10
NPK 13-13-0

(kg)

250-300

b) Cách bón

Bón lót: Rải đều phân theo rạch sau đó lấp đất.

Bón thúc:

–           Lần 1: sau trồng 7 – 10 ngày, khi cây đã hồi xanh, hòa loãng phân đạm và kali tưới xung quanh gốc.

–           Lần 2: sau trồng 15 ngày, hòa loãng phân đạm và kali tưới vào gốc.

–           Lần 3: khi cây ra hoa, 20 – 25 ngày sau trồng, bón phân đạm và kali trộn lẫn vào gốc, lấp đất.

Bón thúc nuôi quả: Sau khi thụ phấn, đậu quả, 40 ngày sau trồng thì bón thúc nuôi quả, chia làm 3 lần, cứ 1 tuần tưới 1 lần, hay bón vào gốc, sau đó tưới tràn. Trước khi thu hoạch 10 ngày (lần thứ 6), hòa loãng phần kali còn lại để tưới gốc cho quả ngọt.

Lưu ý:

Nếu trồng dưa hấu ghép: Cách chăm sóc cây đòi hỏi khác cây không ghép. Giai đoạn đầu không nên bón thúc nhiều cho cây để tránh thân dưa lớn nhanh hơn thân bầu. Khi dưa ngả ngọn bắt đầu thúc từ từ, tăng dần lượng phân bón.

Khi bón phân tránh để phân dính lên lá làm cháy lá, tránh làm tổn thương rễ khi chăm sóc.

1.7. TƯỚI NƯỚC, CHĂM SÓC

a) Tưới nước

Có thể tưới tràn vào rãnh, để đủ ngấm, sau đó phải tháo ngay, mùa hanh khô 1 tuần tưới 1 lần. Khi dưa có quả cần tưới đều đặn, không tưới ồ ạt tránh làm nứt quả (Hình 3). Trước khi thu hoạch 5 ngày ngừng tưới nước.

 

b) Chăm sóc

Nếu dùng màng phủ nông nghiệp, chỉ cần làm cỏ rãnh dưa, không nên dùng thuốc trừ cỏ ở rãnh dễ làm tổn thương lá.

Tỉa nhánh: Khi dưa ngả ngọn, cần tỉa bớt nhánh để tránh tiêu hao dinh dưỡng, dây khỏe, giảm sâu bệnh, quang hợp tốt. Nếu mật độ trồng trên 10.000 cây/ha, mỗi cây để 1 nhánh. Nếu mật độ trồng ít hơn 10.000/ha, mỗi cây để 2 nhánh. Thường xuyên tỉa nhánh, nhất là các nhánh gốc và nhánh cấp 2, cắt bằng kéo vào lúc trời nắng.

Định hướng dây bằng cách lấy que tre ghim dây vào sát mặt đất để gió không làm lật dây.

Khi cây ngả ngọn cần trải rơm, rạ để tua bám tránh gió lật dây.

Thụ phấn:

Thụ phấn là biện pháp kỹ thuật quan trọng để chăm sóc cây. Ong và côn trùng có thể thụ phấn cho hoa dưa hấu ở ngoài tự nhiên (Hình 4a). Tuy nhiên, để thúc nuôi quả phát triển đều và thu hoạch cùng lúc, có thể thụ phấn bổ sung bằng tay (Hình 4b). Thụ phấn vào buổi sáng 6 – 9 giờ, khi dây dài 1,5 m, sau trồng 25 – 30 ngày. Ngắt hoa đực nở to, chấm phấn đều lên nhụy hoa cái to, thời gian thụ phấn nên kéo dài 5 – 7 ngày. Khi quả to như quả chanh tiến hành định quả.

 

Chọn quả:

Nên để mỗi dây 1 quả, ở vị trí hoa 3 – 4, quả có cuống to, dài, bầu to, không sâu bệnh (Hình 5). Chọn hoa cái trên dây to, khỏe, cắm que đánh dấu, tỉa bỏ các quả khác trên cây. Nếu quả nằm chỗ trũng nên kê lên rơm cho khỏi thối.

PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH CHO DƯA HẤU

– Bọ dưa: Bắt, xua đuổi thành trùng bằng tay, dùng vợt hay phun thuốc Politrin, Baythroid, Admire, Đầu Trâu BISAD 0.5 ME liều lượng 10-15 ml/ bình 12-16 lít nước.

Rải thuốc hạt Basudin, Vibam ở gốc dưa sau khi trồng và trước khi cây ra hoa (kết hợp khi bón phân thúc).

– Sâu vẽ bùa: Phun thuốc Ofunack, Fenvalerate, Polirin, Oncol, Sumicidin, Đầu Trâu BISAD 0.5 ME liều lượng 10-15 ml/ bình 12-16 lít nước.

– Bọ trĩ:  Kiểm tra đồng ruộng thường xuyên. Phun thuốc ngay khi mật độ bọ trĩ còn thấp (2-3 con/ lá). Thay đổi loại thuốc thường xuyên để tránh bọ trĩ kháng thuốc.

Thuốc hữu hiệu là: Phun thuốc Đầu Trâu FEAT 25 EC liều lượng 10-15 ml/ bình 12-16 lít nước. Hoặc Regen, Admire, Danitol, Oncol, Confidor.

– Sâu ăn tạp (Spodoptera litura) : Cày ải, phơi đất, vệ sinh đồng ruộng. Rải thuốc hạt khử đất để diệt sâu, nhộng sống trong đất trước khi trồng. Ngắt bỏ ổ trứng hay sâu non.

Phun các loại thuốc: Supracide, Ambush, Karate, Atabron, Shersol, Lorsban ở giai đoạn sâu non.

– Các loại sâu khác (sâu ăn lá, rầy mềm) và các bệnh quan trọng (bệnh héo rũ cây con, bệnh chảy nhựa thân, bệnh thán thư, bệnh sương mai, bệnh nứt thân chảy mủ, bệnh héo vi khuẩn và bệnh khảm) nên sử dụng OLICIDE 0 DD liều lượng 25-30 cc/ bình 8 líl nước hoặc THUMB liều lượng 25-30 cc/ bình 8 líl.

 

Sâu vẽ bùa

Sâu trưởng thành màu đen, họ cánh màng, đẻ trứng trên lá, dòi đục giữa hai lớp biểu bì lá thành đường hầm, làm lá bị tổn thương, giảm diện tích quang hợp (Hình 7). Sâu gây hại vào vụ Xuân Hè. Thành trùng hoạt động mạnh từ 7 – 9 giờ sáng và từ 4 – 5 giờ chiều.

Phòng trừ :

–           Biện pháp canh tác: Làm sạch cỏ xung quanh ruộng dưa trước khi xuống giống. Cày sâu sau khi thu hoạch. Sử dụng màng phủ nông nghiệp. Xuống giống đồng loạt.

–           Biện pháp sinh học: Ngoài thiên nhiên ruồi có rất nhiều thiên địch. Nếu áp dụng thuốc trừ sâu nhiều sẽ làm cho mật độ (mật số) ruồi tăng cao và tạo thành dịch dễ dàng.

–           Biện pháp hoá học: Nếu mật độ thiên địch trên 50% không cần áp dụng thuốc để trừ ruồi. Nhưng nếu mật độ thiên địch thấp, không thể khống chế mật độ ruồi thì nên sử dụng thuốc khi cây con bắt đầu có lá mầm và lá thật đầu tiên. Ở những vùng ruồi có điều kiện nhân mật số nhanh thì cần phun thuốc lại khi cần. Sử dụng thuốc nhóm gốc lân hoặc gốc cúc như Oncol, Regent, Selecron, kết hợp với sử dụng dầu khoáng.

Bọ trĩ

Gây hại vào vụ xuân, nhất là thời tiết khô hạn, ấu trùng trắng sau trưởng thành màu sẫm, thích hút ngọn dưa làm chùn ngọn, khô nõn. Bọ trĩ kháng thuốc mạnh là trung gian truyền virus.

Phòng trừ

Kiểm tra đồng ruộng thường xuyên, kiểm tra đồng ruộng giảm nguồn bọ trĩ sọc vàng lây lan. Trồng cây trong nhà lưới, gieo trồng cây con khỏe, thực hiện màng phủ nông nghiệp. Điều tra chính xác phun trừ kịp thời lứa bõ trĩ sọc vàng giai đoạn đầu. các loại thuốc sử dụng để phòng trừ bọ trĩ là Confidor 40 SC, Oncol 5EC, Regent 800 WG, Bulldock 2,5 EC nên phun sáng sớm khi còn sương, lúc đó chúng khó di chuyển.

Ngoài ra còn một số loại sâu ăn lá, rệp phá cây lúc cây phát triển thân lá mạnh, phòng trừ kịp thời ngay từ lúc mật độ còn ít.

Bệnh chết thắt cây con

Do nấm trong đất Rhizoctonia solani, Pythium spp, Fusarium solani gây ra, thường xuất hiện lúc cây 2 lá mầm đến có lá thật, khi thời tiết nóng ẩm, tưới quá nhiều, đất làm bầu chặt dí.

Phòng trừ

Biện pháp canh tác: Tạo điều kiện thoát nước tốt cho ruộng, liếp cao, dễ thoát nước mặn. Ươm cây trong bầu và áp dụng các biện pháp phòng trừ ngay khi gieo hạt, đất nhẹ sạch, phân bón cân đối, phân chuồng ủ hoai mục.

Biện pháp hóa hoc: Phát hiện sớm nếu thấy bẹnh có thể sử dụng các biện pháp hóa học sau: dùng thuốc Validan 3 DD – 5 DD. Bonaza 1000DD, Folpan 50 SC, Topan 70 WP.

Bệnh chảy nhựa thân

Do nấm Mycosphaerella melonis gây ra. Vết bệnh hình bầu dục, lõm, màu vàng nhạt, nhựa cây tứa ra màu nâu đỏ. Trên lá dưa hấu đốm bệnh úng nước không góc canh thường xuất hiện từ bìa với vòng đồng tâm nâu sậm, sau chuyển nâu đen hay đen. Tâm vết bệnh có nhiều quả thể nhỏ (thể sinh sản hữu tính). Trên thân, vết bệnh hình bầu dục, xám trắng hơi lõm ứa ra những giọt nhựa màu nâu đỏ sau chuyển thành nâu đen và khô cứng. Bệnh già vỏ thân bị nứt nẻ trên có nhiều quả thể nấm đen nhỏ. Trên trái lúc đầu vết bệnh là những đốm nhũn nước, sau đó khô nâu và nứt nẻ.

Phòng trừ :

–           Biện pháp canh tác: Thường xuyên dọn sạch cỏ dại trong ruộng, tạo điều kiện thông thoáng cho cây. Tốt nhất sử dụng màng phủ đất hạn chế mưa bắn.

–           Biện pháp hoá học: Thường xuyên thăm đồng phát hiện bệnh sớm và phun thuốc Carban 50 SC, Zineb Bul 80 WP hoặc Topan 70 WP kịp thời. Ngừng bón phân khi cây bị bệnh.

 

Bệnh thán thư

Do nấm Colletotrichum lagenarium gây hại trên lá, thân, quả trong điều kiện nhiệt độ không khí cao, bệnh nặng gây thối quả. Bệnh thuộc loại lây truyền qua giống, tồn tại trên tàn dư cây trồng, trên cây trồng mới hoặc cỏ thuộc họ bầu bí. Bào tử phát tán nhờ gió và mưa bắn nước (Hình 10).

Phòng trừ:

–           Biện pháp canh tác: Trồng giống chống bệnh. Hạn chế cỏ dại trong ruộng để ruộng thông thoáng và giảm ẩm độ. Nên sử dụng màng phủ đất hạn chế bệnh. Khi cây bị bệnh ngưng bón đạm và ngưng tưới phun.

–           Biện pháp hoá học: Phun các thuốc trừ bệnh Folpan 50 SC, Score 250 ND, Topan 70 WP đến khi bệnh không lây lan.

 

Bệnh phấn trắng

Do nấm Erysiphe cichoracearum, Sphaerotheca fuligena gây ra. Đầu tiên là các đốm vàng nhợt trên lá và thân. Trên bề mặt, vết bệnh hình thành các đám phấn bào tử trắng thấy rõ. Đám bào tử phát triển bao phủ toàn bộ bề mặt lá. Lá đổi màu sang nâu và héo nhanh chóng. Bệnh phát triển ở mọi điều kiện nhiệt độ miễn sao đủ độ ẩm và có bào tử nấm có thể nẩy mầm.

Phòng trừ : Dọn sạch cỏ trong vườn (nhất là những cây hoang dại thuộc họ bầu bí) để ruộng đủ độ thông thoáng, hạn chế ẩm độ. Dùng màng phủ đất để hạn chế cỏ dại. Phát hiện sớm phun thuốc Topan 70 WP hoặc Zineb Bul 80 WP có thể phòng trừ bệnh.

 

Luân canh cây dưa hấu với cây khác họ nếu đất đã bị nhiễm, ngừng trồng dưa 3 -5 năm, ghép dưa hấu lên gốc bầu.

Biện pháp hóa học sử dụng thuốc appencarb super 50 Fl hoặc Carban 50 SC. Các loại thuốc bệnh nên phun lúc sáng sớm vì hầu hết các loại bào tử nấm nảy mầm nhờ sương sớm.

Bệnh héo vàng hay héo rũ

Do nấm Fusarium oxysporum niveum gây ra. Nấm có thể tấn công vào cây ở mọi giai đoạn sinh trưởng. Bệnh làm chết hoặc lùn cây con. Trên cây lớn bệnh gây héo cây vào trưa trong vài ngày rồi chết rũ. Bó mạch thân biến màu trở thành vàng hoặc nâu. Nấm này tồn tại trong đất khá lâu.

 

Do vi khuẩn Erwinia tracheiphila gây ra. Lá bị bệnh héo đột ngột sau đó héo cả dây và dẫn đến tình trạng héo vĩnh viễn, chết nhanh trong 2 ngày. Vi khuẩn được sinh sôi ở bó mạch của cây. Khi cắt ngang thân có thể thấy keo trong; nếu nhúng vào ly nước trong từ vết cắt sẽ tuôn các dòng keo trắng.

Phòng trừ : Bệnh rất khó trừ nên phòng bệnh bằng biện pháp tổng hợp, luân canh, vệ sinh đồng ruộng. Chọn giống ít nhiễm, tỉa bỏ những cây bệnh nhằm ngăn chặn sự lan truyền thứ cấp. Phòng trừ bọ cánh cứng (môi giới truyền bệnh) bằng một trong các loại thuốc sau: Polytrin P440ND, Alphan 5EC, Peran 50EC, Forvin 85WP, Forsan 50EC, Forwathion 50EC.

Bệnh loang lổ quả

Do vi khuẩn Pseudomonas pseudoalcaligenes gây ra. Trên vỏ quả có các vệt hay đám màu lục vàng sẫm màu. Vết bệnh thoạt đầu thể hiện như bị dính vệt nước nhỏ hơn 1 cm, nhưng sau 7 – 10 ngày vết bệnh loang nhanh che phủ khắp vỏ quả. Khi vết bệnh tăng kích thước, thì quanh chỗ nhiễm ban đầu chuyển thành hư thối. Giai đoạn tiếp theo, biểu bì vỏ quả bị vỡ và từ chỗ vỡ chảy ra một chất dịch mầu hổ phách trong suốt. Bệnh truyền qua hạt giống. Điều kiện cho bệnh phát triển mạnh là thời tiết nóng và ẩm.

Phòng trừ : Sử dụng giống và cây con sạch bệnh. Cánh đồng bị nhiễm bệnh cần được luân canh với cây khác họ bầu bí trong 3 năm. Áp dụng định kỳ phun thuốc gốc đồng để giảm bớt nguồn bệnh.

THU HOẠCH, BẢO QUẢN DƯA HẤU

a) Thu hoạch

Ngày thu hoạch tùy theo đặc tính giống và thời tiết. Thông thường, sau khi thụ phấn bổ sung 30 – 35 ngày ở miền Bắc và khoảng 25 – 30 ngày ở miền Nam, khi quả chín 70 – 80% thì thu hoạch (Hình 15). Để cho chất lượng trái đảm bảo ngon ngọt, trước khi thu hoạch 7 – 10 ngày cần phải giảm, cắt nước tùy theo vùng đất. Sau đó cắt, vận chuyển nhẹ nhàng. Dùng rơm lót dưa hấu để tránh dập nát.

Cách nhận biết quả chín: Quả đạt kích thước tối đa của giống, vỏ quả thể hiện màu sắc của giống, vỏ nhiều phấn trắng, chỗ tiếp giáp đất có màu vàng. Dây, lá dưa, đầu tua ngay đốt quả chuyển vàng. Gõ nhẹ lên quả có tiếng kêu trầm đục. Cắt cuống dài 8 – 10 cm.

 

b) Bảo quản

Cho mỗi quả dưa vào một túi nilon, túm chặt lại, để vào chỗ râm mát, không cho ánh nắng chiếu vào. Trường hợp dùng hầm rau hay hầm ở dưới đất để bảo quản dưa thì càng tốt; phải luôn luôn giữ dưa ở trong trạng thái thiếu oxy tự nhiên và ở chỗ có nhiệt độ thấp. Có thể chồng tầng lên nhau nếu bảo quản số lượng nhiều, lót rơm hay cỏ khô giữa các tầng và lớp đáy cuối cùng. Trong quá trình bảo quản, phải thường xuyên kiểm tra, nếu thấy quả nào có hiện tượng xấu thì loại bỏ để tránh lây lan. Dưa đủ tiêu chuẩn có thể bảo quản 15 – 20 ngày.

Sử dụng kho lạnh bảo quản dưa hấu có thể giữ được lâu hơn từ 30 – 35 ngày trở lên. Dưa để bảo quản chọn loại cứng vỏ, cứng cùi, chín 8/10, loại bỏ cuống ở núm. Dùng rượu trắng hay nước muối nồng độ 5% vừa lau vừa rửa vỏ quả. Để vào kho lạnh khô ráo sạch sẽ, không khí lưu thông, điều chỉnh nhiệt độ vừa phải, tốt nhất là khoảng 15oC.

Xem Thêm:   Các Loài Sâu Bệnh Thường Trú Ẩn Ở Đâu? Sâu Bệnh Hại Cây Ăn Quả

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *